Khảo sát sáng nay 23/4, tại Sở giao dịch hàng hóa Tokyo (TOCOM), giá cao su kỳ hạn giao tháng 5/2024 tăng 3,7 yên/kg tương đương với +1.13 % ở mức 326,00 yen/kg. Giá cao su kỳ hạn giao tháng 6/2024 ở mức 316,10 yên/kg giảm 1,9 yên/kg tương đương với -0.60% và kỳ hạn 7/2024 ở mức 318.10 yên/kg giảm 0,8 yên/kg tương đương với -0.25%.
Trên Sàn giao dịch hàng hóa tương lai Thượng Hải (SHFE), giá cao su RSS3 giao kỳ hạn tháng 5/2024 được điều chỉnh ở mức 14190 nhân dân tệ/tấn giảm 0,87% (tương đương 125 nhân dân tệ) so với giao dịch trước đó. Kỳ hạn tháng 6/2024 được điều chỉnh mức 14.225 nhân dân tệ/tấn giảm 1.04% (tương đương giảm 150 nhân dân tệ) so với giao dịch trước đó.
Theo nhận định, nguồn cung cao su có thể tiếp tục thiếu hụt trong năm 2024 - 2025, thị trường toàn cầu có thể sẽ thiếu hụt khoảng 600 - 800 nghìn tấn mỗi năm. Sự chênh lệch cung - cầu này đến từ tiêu thụ cao su thiên nhiên trên toàn cầu có thể duy trì tốc độ tăng trưởng từ 4 - 6% mỗi năm, nhờ vào sự phục hồi của ngành sản xuất ô tô và lốp xe toàn cầu, đặc biệt là tại thị trường Trung Quốc.
Hoạt động sản xuất và xuất khẩu lốp xe của Thái Lan và Ấn Độ cũng tăng trưởng tích cực và dự kiến sẽ tiếp tục tăng cao trong năm 2024. Tuy nhiên, nguồn cung cao su tự nhiên toàn cầu dự kiến chỉ tăng trưởng bình quân khoảng 1 - 3%/năm trong giai đoạn 2024 - 2025.
Diện tích trồng cao su tại Thái Lan và Indonesia liên tiếp giảm do dịch bệnh trên cây cao su và xu hướng chuyển đổi sang trồng cây công nghiệp khác có hiệu quả kinh tế cao hơn. Hiệu suất thu hoạch cao su cũng đã giảm xuống trong những năm gần đây do dịch bệnh và thời tiết cực đoan.
Đặc biệt, năm 2024 dự báo sẽ là năm khắc nghiệt với cây cao su khi chuyển giao giữa hiện tượng El Nino và La Nina, gây ra nhiều biến động trong mùa vụ khai thác cao điểm tại khu vực Đông Nam Á.
Theo Kinh Tế & Môi Trường
(VLO) Việt Nam là nước xuất khẩu gạo lớn nhất vào Singapore; Giá lúa ĐBSCL tiếp tục tăng; Giá trái thanh long ruột đỏ tại nhiều địa phương vùng ÐBSCL đã tăng…là những thông tin thị trường đáng chú ý.
*Việt Nam là nước xuất khẩu gạo lớn nhất vào Singapore
Theo Thương vụ Việt Nam tại Singapore, quý I/2024 đánh dấu sự vươn lên của Việt Nam, lần đầu tiên trở thành quốc gia xuất khẩu gạo lớn nhất vào thị trường Singapore, chiếm 32,03% thị phần, kim ngạch xuất khẩu gạo Việt sang Singapore đạt cao hơn so với Ấn Độ (6,96%) và Thái Lan (8,28%).
![]() |
*Giá lúa ĐBSCL tiếp tục tăng
Theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam, giá lúa thường tại ruộng tuần qua cao nhất là 8.050đ/kg, giá bình quân là 8.000đ/kg, tăng 214đ/kg. Giá lúa thường tại kho tăng trung bình 183đ/kg, ở mức 9.475đ/kg; giá cao nhất là 9.650đ/kg.
*Giá trái thanh long ruột đỏ tại nhiều địa phương vùng ÐBSCL đã tăng
Mức tăng từ 10.000-12.000đ/kg và đang ở mức khá cao, người trồng thanh long phấn khởi. Thanh long ruột đỏ loại 1 được nông dân bán cho thương lái và các vựa thu mua trái cây với giá lên đến 42.000-43.000 đ/kg; loại 2 đang ở mức 37.000-39.000đ/kg...
*Thái Lan dự kiến xuất khẩu 1 triệu tấn sầu riêng trong năm nay
Bộ Nông nghiệp Thái Lan đã yêu cầu Ủy ban Trái cây gặp gỡ các nông dân trồng sầu riêng, các chủ nhà máy phân loại và đóng gói, nhà doanh nhân và Cục Xúc tiến hợp tác xã và khuyến nông nông nghiệp, nhằm đảm bảo rằng sầu riêng xuất khẩu đáp ứng các tiêu chuẩn chất lượng và yêu cầu GAP của Trung Quốc. Ngoài ra, tìm cách giảm chi phí phân bón và thuốc trừ sâu cho nông dân trồng sầu riêng. Thái Lan đặt mục tiêu xuất khẩu khoảng 1 triệu tấn sầu riêng, trị giá khoảng 130 tỷ Baht, chủ yếu sang thị trường Trung Quốc.
*Nông dân được mùa dưa hấu
Nhiều nông dân trồng dưa hấu Hậu Giang phấn khởi bởi giá cao. Cụ thể, tại huyện Phụng Hiệp, thương lái thu mua dưa hấu với giá 5.000-6.000đ/kg tùy chất lượng trái, bình quân cao hơn cùng kỳ năm rồi 1.000đ/kg. Với giá bán hiện nay và năng suất vụ này bình quân 1,7-2 tấn/công, người trồng dưa hấu lợi nhuận hơn 7 triệu đ/công.
H.M- Kinh tế
Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, tháng 3/2024, xuất khẩu cao su của Việt Nam đạt gần 116,1 nghìn tấn, trị giá 180,36 triệu USD, tăng 32,3% về lượng và tăng 38,8% về trị giá so với tháng 2/2024; So với tháng 3/2023 tăng 0,2% về lượng và tăng 10% về trị giá.
Lũy kế 3 tháng đầu năm 2024, xuất khẩu cao su đạt 414,31 nghìn tấn, trị giá 607,35 triệu USD, tăng 8,5% về lượng và tăng 14,3% về trị giá so với cùng kỳ năm 2023.
Về giá xuất khẩu, tháng 3/2024, giá cao su xuất khẩu bình quân đạt 1.554 USD/tấn, tăng 4,9% so với tháng 2/2024 và tăng 9,9% so với tháng 3/2023. Lũy kế 3 tháng đầu năm 2024, giá cao su xuất khẩu bình quân đạt 1.466 USD/tấn, tăng 5,3% so với cùng kỳ năm 2023.
Theo Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) và Trung tâm Thông tin Công nghiệp và Thương mại, trong tháng 3/2024, Trung Quốc vẫn là thị trường xuất khẩu cao su lớn nhất của Việt Nam, chiếm 52,83% tổng lượng cao su xuất khẩu của cả nước, với gần 61,34 nghìn tấn, trị giá 90,72 triệu USD, tăng 4,5% về lượng và tăng 7,9% về trị giá so với tháng 2/2024; Tuy nhiên so với tháng 3/2023 giảm 29,3% về lượng và giảm 24,3% về trị giá.
Giá cao su xuất khẩu bình quân sang Trung Quốc ở mức 1.479 USD/tấn, tăng 3,2% so với tháng 2/2024 và tăng 7,1% so với tháng 3/2023. Lũy kế 3 tháng đầu năm 2024, Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc 287,85 nghìn tấn cao su, trị giá 407,82 triệu USD, giảm 1,6% về lượng, nhưng tăng 2,7% về trị giá so với cùng kỳ năm 2023.
Đáng chú ý, trong tháng 3/2024, xuất khẩu cao su sang một số thị trường như: Ấn Độ, Đức, Thổ Nhĩ Kỳ, Nga, Sri Lanka, Bỉ, Hoa Kỳ… tăng trưởng mạnh cả về lượng và trị giá so với tháng 3/2023.
Mới đây, Ấn Độ đã quyết định giảm thuế nhập khẩu đối với một số loại xe điện được sản xuất bởi các nhà sản xuất ô tô cam kết đầu tư ít nhất 500 triệu USD và bắt đầu sản xuất trong nước trong vòng 3 năm. Điều này hứa hẹn sẽ là bước tiếp mới với ngành công nghiệp ô tô của quốc gia này và đi kèm với đó là nhu cầu về cao su cũng tích cực hơn cho hoạt động sản xuất lốp xe.
Từ đầu tháng 4/2024 đến nay, giá cao su tại các sàn giao dịch châu Á biến động trái chiều, giá tăng tại Nhật Bản và Thượng Hải, trong khi giảm tại Thái Lan.
Cụ thể, tại Sở giao dịch hàng hóa Osaka Exchange (OSE), giá cao su tăng trở lại so với cuối tháng trước. Ngày 09/4/2024, giá cao su RSS3 giao kỳ hạn gần ở mức 345,3 Yên/kg (tương đương 2,27 USD/kg), tăng 2,1% so với cuối tháng 3/2024 và tăng 73,6% so với cùng kỳ năm 2023. Giá cao su kỳ hạn tại Nhật Bản tăng do điều kiện thời tiết không thuận lợi ở các khu vực sản xuất cao su và đồng Yên yếu đi, mặc dù giá dầu giảm đã hạn chế mức tăng.
Tại Sàn giao dịch hàng hóa tương lai Thượng Hải (SHFE), giá cao su RSS3 cũng trong xu hướng tăng. Ngày 09/4/2024, giá cao su RSS3 giao kỳ hạn gần ở mức 14.840 NDT/tấn (tương đương 2,05 USD/kg), tăng 3,4% so với cuối tháng 3/2024 và tăng 29,9% so với cùng kỳ năm 2023. Về lượng tồn kho, tuần tính đến ngày 07/4/2024, tổng tồn kho cao su tự nhiên tại khu ngoại quan và thương mại tổng hợp Thanh Đảo đạt 643.500 tấn, giảm 16.400 tấn so với tuần trước (trong đó, tồn kho tại khu ngoại quan đạt 88.800 tấn, giảm 1,1%; Tồn kho thương mại tổng hợp đạt 554.700 tấn, giảm 2,7%).
Tại Thái Lan, giá cao su giảm trở lại sau khi tăng mạnh trong tháng trước. Chốt phiên giao dịch ngày 09/4/2024, giá cao su RSS3 dao động ở mức 88 Baht/kg (tương đương 2,41 USD/kg), giảm 1,3% so với cuối tháng 3/2024, nhưng tăng 67,4% so với cùng kỳ năm 2023. Hiện tượng La Nina có khả năng xảy ra vào nửa cuối năm 2024 sẽ tiếp tục gây lo ngại cho nguồn cung Thái Lan nói riêng và toàn cầu nói chung, vì thời điểm này là mùa cao điểm khai thác cao su, sau khi kết thúc giai đoạn nghỉ cạo và thay lá trong nửa đầu năm. Trong 2 tháng đầu năm 2024, sản lượng cao su của Thái Lan đạt 871 nghìn tấn, giảm 0,4% so với cùng kỳ năm 2023.
Theo nhận định, nguồn cung cao su có thể tiếp tục thiếu hụt trong năm 2024 - 2025, thị trường toàn cầu có thể sẽ thiếu hụt khoảng 600-800 nghìn tấn mỗi năm. Sự chênh lệch cung - cầu này đến từ tiêu thụ cao su thiên nhiên trên toàn cầu có thể duy trì tốc độ tăng trưởng từ 4-6% mỗi năm, nhờ vào sự phục hồi của ngành sản xuất ô tô và lốp xe toàn cầu, đặc biệt là tại thị trường Trung Quốc. Hoạt động sản xuất và xuất khẩu lốp xe của Thái Lan và Ấn Độ cũng tăng trưởng tích cực và dự kiến sẽ tiếp tục tăng cao trong năm 2024.
Tuy nhiên, nguồn cung cao su tự nhiên toàn cầu dự kiến chỉ tăng trưởng bình quân khoảng 1-3%/năm trong giai đoạn 2024- 2025. Diện tích trồng cao su tại Thái Lan và Indonesia liên tiếp giảm do dịch bệnh trên cây cao su và xu hướng chuyển đổi sang trồng cây công nghiệp khác có hiệu quả kinh tế cao hơn. Hiệu suất thu hoạch cao su cũng đã giảm xuống trong những năm gần đây do dịch bệnh và thời tiết cực đoan. Đặc biệt, năm 2024 dự báo sẽ là năm khắc nghiệt với cây cao su khi chuyển giao giữa hiện tượng El Nino và La Nina, gây ra nhiều biến động trong mùa vụ khai thác cao điểm tại khu vực Đông Nam Á.
Thái Lan: Trong 2 tháng đầu năm 2024, Thái Lan đã xuất khẩu được 711 nghìn tấn cao su tự nhiên và cao su hỗn hợp, giảm 17,5% so với cùng kỳ năm 2023. Trong đó, xuất khẩu sang Trung Quốc đạt 374 nghìn tấn, giảm 36% so với cùng kỳ năm 2023. Trong 2 tháng đầu năm 2024, xuất khẩu cao su tự nhiên của Thái Lan đạt 505 nghìn tấn, tăng 4% so với cùng kỳ năm 2023 (trong đó, xuất khẩu cao su tiêu chuẩn đạt 301 nghìn tấn, tăng 28%; xuất khẩu cao su hun khói đạt 66 nghìn tấn, giảm 10%; xuất khẩu mủ cao su đạt 134 nghìn tấn, giảm 22% so với cùng kỳ năm 2023). Xuất khẩu cao su tự nhiên của Thái Lan sang Trung Quốc đạt 174 nghìn, giảm 16% so với cùng kỳ năm 2023. Trong 2 tháng đầu năm 2024, Thái Lan xuất khẩu được 206 nghìn tấn cao su hỗn hợp, giảm 46% so với cùng kỳ năm 2023. Trong đó, xuất khẩu cao su hỗn hợp sang Trung Quốc đạt 200 nghìn tấn, giảm 47% so với cùng kỳ năm 2023.
Indonesia: Trong 2 tháng đầu năm 2024, Indonesia đã xuất khẩu được 263 nghìn tấn cao su tự nhiên và cao su hỗn hợp, giảm 18,8% so với cùng kỳ năm 2023. Trong đó, xuất khẩu sang Trung Quốc đạt 18 nghìn tấn, giảm 72% so với cùng kỳ năm 2023. Trong 2 tháng đầu năm 2024, xuất khẩu cao su tự nhiên của Indonesia đạt 261 nghìn tấn, giảm 18% so với cùng kỳ năm 2023 (xuất khẩu cao su tiêu chuẩn đạt 256 nghìn tấn, giảm 18%; xuất khẩu cao su hun khói đạt 5 nghìn tấn, giảm 17%; xuất khẩu mủ cao su đạt 0,3 tấn, giảm 80%). Xuất khẩu cao su tự nhiên của Indonesia sang Trung Quốc đạt 16 nghìn tấn, giảm 73% so với cùng kỳ năm 2023.